Công nghệ số ra đời thay đổi sâu sắc và toàn diện cơ sở thông tin của xã hội. Với các thiết bị công nghệ số, dữ liệu thông tin được tạo lập nhanh chóng, lưu trữ lâu dài, phổ biến rộng rãi và sử dụng thuận tiện. Việc số hoá tài liệu không chỉ góp phần bảo tồn các di sản văn hoá, mà còn là nguồn lực thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Một số quốc gia và vùng lãnh thổ đã sớm xây dựng các chương trình số hoá thành các chương trình trọng điểm[1]. Ở nước ta, chương trình số hoá tài liệu cũng đang được Nhà nước và giới chuyên môn quan tâm. Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành văn bản số 8665/VPCP-HC chỉ đạo các Bộ, ngành và các đối tượng liên quan thực hiện chương trình số hóa hồ sơ, văn bản trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ từ ngày 15 tháng 12 năm 2011. Để các chương trình số hoá tài liệu có thể triển khai có hiệu quả trong thực tế, có rất nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có vấn đề pháp luật, cụ thể là các quy định pháp luật về bản quyền.
Vấn đề bản quyền trong số hoá tài liệu, cũng như bản quyền trong môi trường kỹ thuật số nói chung rất phức tạp. Các Điều ước quốc tế, cụ thể Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (WCT) và Hiệp ước của WIPO về cuộc biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) cùng hệ thống pháp luật quốc gia đã tiếp cận và điều chỉnh những vấn đề mới nảy sinh trong môi trường số. Tuy nhiên, nó vẫn trở thành vấn đề “đau đầu” của không chỉ tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, cơ quan quản lý nhà nước mà cả những người muốn khai thác, sử dụng tác phẩm để số hoá một cách hợp pháp. Họ gặp phải rất nhiều câu hỏi về bản quyền khi tiến hành số hoá các tài liệu phục vụ cho các mục đích khác nhau, ví dụ thư viện số hoá các tài liệu để lưu trữ và phục vụ bạn đọc tra cứu, tham khảo. Trong giới hạn bài viết sẽ đề cập đến một số vấn đề về quyền tác giả và quyền liên quan có thể phát sinh khi tiến hành số hoá tài liệu từ góc độ pháp luật.
Hiểu một cách đơn giản, số hóa là việc sử dụng các thiết bị công nghệ số để chuyển đổi các hình thức tài liệu dưới dạng truyền thống sang dạng số để thông tin có thể được xử lý, lưu trữ, và truyền phát qua các thiết bị kỹ thuật số và trên mạng[2]. Để có thể thực hiện việc số hóa tài liệu, trước tiên cần tiến hành thu thập và phân loại tài liệu. Bản thân việc thu thập và phân loại tài liệu không phải là hành vi sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan, tuy nhiên mục đích của việc thu thập và phân loại là nhằm tiến hành số hoá tài liệu- đây có thể là các hành vi sử dụng quyền theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Vì vậy, để đảm bảo quá trình số hoá đươc tiến hành hợp pháp, việc xác định tài liệu dự kiến số hoá có phải là đối tượng của quyền tác giả và quyền liên quan theo quy định của pháp luật hay không rất quan trọng.
Đối tượng bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan
Đầu vào của quá trình số hoá có thể là bất kỳ phương tiện, hình thức nào chứa đựng nội dung thông tin, nó có thể tồn tại dưới các hình thức hiện hữu truyền thống cũng có thể đã ở dạng số. Trong khi đó, theo quy định của Luật sở hữu trí tuệ, đối tượng của quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học và đối tượng của quyền liên quan bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá (Điều 3 Luật Sở hữu trí tuệ). Mà theo quy định tại Điều 4 Luật Sở hữu trí tuệ “tác phẩm là sản phẩm sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học thể hiện bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào”. Như vậy chỉ khi tài liệu đầu vào của quá trình số hoá chứa đựng sản phẩm mang tính sáng tạo của con người và đã được định hình mới là đối tượng bảo hộ bản quyền.
Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan
Người sáng tạo ra tác phẩm là tác giả hoặc người được tác giả chuyển nhượng quyền mới là chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm chứ không phải người sở hữu bản gốc hay bản sao tác phẩm cụ thể.[3] Ví dụ , thư viện chỉ là chủ sở hữu đối với các cuốn sách cụ thể được lưu trữ trong quầy của thư viện, tác giả viết các cuốn sách hay các tổ chức, cá nhân được tác giả chuyển nhượng quyền mới là chủ sở hữu quyền tác giả đối với các cuốn sách đó. Việc xác định tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan góp phần vạch rõ kế hoạch xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan và đẩy nhanh tiến độ triển khai số hoá.
Xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan
Đối với các tài liệu không thuộc đối tượng bảo hộ quyền tác giả như Điều 15 Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “1. Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin. 2. Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.3. Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu”; Các tác phẩm đã hết thời hạn bảo hộ theo luật định. Luật Sở hữu trí tuệ quy định rõ thời hạn bảo hộ đối với từng đối tượng: Thời hạn bảo hộ quyền công bố tác phẩm và các quyền tài sản đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh là bảy mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Các loại hình tác phẩm khác có thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết; trong trường hợp tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác giả cuối cùng chết.Thời hạn bảo hộ quyền liên quan là năm mươi năm tính từ năm tiếp theo năm cuộc biểu diễn được định hình, bản ghi âm, ghi hình được công bố hoặc định hình nếu chưa công bố, chương trình phát song được thực hiện [4]; Các tác phẩm hoặc đối tượng bảo hộ quyền liên quan mà tác giả, chủ sở hữu quyền tuyên bố rõ từ bỏ quyền tác giả, quyền liên quan có thể tiến hành số hoá bất cứ khi nào có thể mà không cần đặt ra vấn đề xin phép sử dụng quyền tác giả quyền liên quan. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tiến hành số hoá, quyền nhân thân của tác giả đối với tác phẩm cần được tôn trọng, quyền nhân thân được bảo hộ vô thời hạn và không thể chuyển nhượng, do vậy trên các dữ liệu số hoá vẫn phải đảm bảo quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên trên tác phẩm, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm… của tác giả tác phẩm gốc.
Về nguyên tắc, đối với các tài liệu được bảo hộ bản quyền, trước khi sử dụng tác phẩm cần xin phép và thực hiện nghĩa vụ trả nhuận bút, thù lao cho tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo thoả thuận. Việc xin cấp phép sử dụng quyền tác giả và quyền liên quan hiện nay có thể thực hiện đơn giản và dễ dàng. Người sử dụng có thể theo các thông tin quản lý quyền có trên tác phẩm liên hệ trực tiếp với tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả đề được cấp phép, hoặc thông qua các tổ chức quản lý tập thể nếu tác giả, chủ sở hữu quyền đã ủy thác quyền cho các tổ chức này quản lý (điều 56 Luật Sở hữu trí tuệ). Tại Việt Nam, hiện đang có bốn tổ chức quản lý tập thể, gồm: Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam- VCPMC, Trung tâm Quyền tác giả văn học Việt Nam- VLCC, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam- RIAV, Hiệp hội Quyền sao chép Việt Nam-VIETRRO.
Giới hạn và ngoại lệ
Tuy nhiên, thực tế theo quy định về giới hạn và ngoại lệ của trong cơ chế bảo hộ bản quyền, công chúng được tự do sử dụng trong một số trường hợp nhất định. Nếu hành vi số hoá tài liệu thuộc một trong các trường hợp mà Luật Sở hữu trí tuệ đã quy định tại điều 25, điều 33 thì người tiến hành số hóa không có nghĩa vụ xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao, ví dụ:
“ a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;…
đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;...
g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;
h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;” (Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ)
Cần lưu ý các ngoại lệ này chỉ áp dụng đối với các tác phẩm đã được công bố, không thể áp dụng cho các tác phẩm chưa công bố và phải đảm bảo tuân thủ quy tắc “phép thử ba bước” (không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến quyền lợi hợp pháp của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả).
Đối với các tài liệu không xác định rõ thời hạn bảo hộ bản quyền hay không xác định được tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người sử dụng cần cân nhắc những rủi ro về kinh tế và pháp lý có thể phát sinh để quyết định có tiến hành số hoá hay không. Ngoài ra, cũng có trường hợp có thể tiến hành số hoá tài liệu nhưng phải thoả mãn một số điều kiện mà chủ sở hữu quyền yêu cầu.
Tình trạng bảo hộ bản quyền đối với các nguồn tài liệu được số hoá không đồng nhất sẽ dẫn đến hành vi số hoá ứng với các hành vi sử dụng tác phẩm khác nhau theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ và nếu không được cấp phép có khả năng xâm phạm đến các quyền khác nhau của tác giả và chủ sở hữu quyền tác giả, quyền liên quan. Vì vậy, xác định rõ nguồn tài liệu được số hóa góp phần đảm bảo quá trình số hóa được tiến hành thuận lợi và tránh được nguy cơ xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan./.
Ths. Hoàng Thị Thanh Hoa (COV)
Tài liệu tham khảo
- June M. Besek, Copyright Isues Relevant to the Creation of a Digital Archive: A preliminary Assessment, Council on Library anf Information Resources and the Library of Congress, 2003.http://www.clir.org/pubs/reports/pub112/contents.html, 20/11/2011
- Micalee Sullivan, The Digital Archive and Copyright Headaches,http://www.gradhacker.org/2011/06/01/The Digital Archive and Copyright Headaches/, 20/11/2011
- Ming- Yan Shieh, Yi-Long Jaw, Hsiao- Hui Chen, A Study on the Protection and Licensing Related Legal Issue concerning the Digital Archivers, National Taiwan University, Taipei, 2008 (Chinese Version)
- Wang, wen-chun, Lai, wen-chi, A Study on the Application of Expert System for Digital Archivers related Copyright Problem Solving, Info Share Tech Law Office, Taipei.(Chinese Version)
- Nguyễn Tiến Đức, Xây dựng thư viện điện tử và vấn đề số hoá tài liệu ở Việt Nam,Trung tâm Thông tin KHCN Quốc gia, nguồn http://www.ted.com.vn/, 20/11/2011.
- NGUYỄN MINH HIỆP, Thế giới thư viện số, BẢN TIN THƯ VIỆN –CÔNG NGHỆ THÔNG TIN, tháng 4 – 2004, http://tusach.thuvienkhoahoc.com/, 20/11/2011
[1] Ví dụ: Chương trình số hóa hạ tầng thông tin và lưu trữ của Hoa Kỳ (the National Digital Information Infrastructure and Preservation Program), nguồn:http://www.clir.org/pubs/reports/pub112/contents.html, hay Chương trình Số hóa dữ liệu của Đài Loan (Trung Quốc) (the National Digital Archives Program)[1], nguồn: http://teldap.tw/
[2] http://www.businessdictionary.com/definition/digitization.html
[3] Điều 36,37 Luật Sở hữu trí tuệ
[4] Điều 27, điều 34 Luật Sở hữu trí tuệ